Áo tứ thân cùng với dải yếm đào và chiếc nón quai thao chính là hình ảnh quen thuộc của những người phụ nữ kinh bắc xưa. Trước thế kỷ 20, áo tứ thân được sử dụng như một trang phục hàng ngày nhưng đến ngày nay chỉ trong những lễ hội truyền thống, hoặc những dịp đặc biệt chúng ta mới có thể bắt gặp người phụ nữ mặc áo tứ thân.
Áo tứ thân – Trang phục truyền thống của phụ nữ Việt
Lịch sử ra đời của áo tứ thân
Tin liên quan
Áo tứ thân xuất hiện tại Việt Nam vào những năm 1920-1930 của thế kỷ 20. Cho đến đầu thế kỷ 20 thì áo tứ thân vẫn được sử dụng như một loại trang phục hàng ngày của phụ nữ miền Bắc của Việt Nam. Ngày nay, áo tứ thân chỉ được mặc trong các lễ hội truyền thống hoặc trên sân khấu biểu diễn…
Cho đến thời điểm này, vẫn chưa ai biết được chính xác nguồn gốc của áo tứ thân. Người ta đã tìm thấy trong một số di sản khảo cổ, các nhà khảo cổ đã tìm thấy hình ảnh của chiếc áo tứ thân được khắc trên các mặt trống đồng từ cách đây khoảng vài nghìn năm trước.
Có truyền thuyết kể lại rằng, Hai Bà Trưng đã mặc một chiếc áo dài với 2 tà giáp vàng trong cuộc khởi nghĩa chống quân Hán xâm lược nước ta nên mọi người đã tránh mặc áo 2 tà và thay vào đó là áo tứ thân để tỏ lòng tôn kính.
Một cách lý giải khác cho sự xuất hiện của áo tứ thân chính là cách dệt vải của người xưa khá thô sơ nên chỉ có thể dệt ra được loại vải có khổ hẹp nên phải ghép 4 mảnh lại với nhau mới có thể may thành một chiếc áo hoàn chỉnh.
Áo dài giao lãnh chính là kiểu sơ khai nhất của chiếc áo dài Việt Nam, để thuận tiện cho việc buôn bán và đồng áng nên để 2 thân trước giao nhau chứ không buộc lại. Qua nhiều thời kỳ, chiếc áo dài giao lãnh dần trở thành áo tứ thân.
Đặc điểm của chiếc áo tứ thân
Áo tứ thân thường được may với độ dài quá gối khoảng 20cm. Đúng như tên gọi, áo được may với 2 vạt áo phía trước và 2 vạt áo phía sau. Hai tà áo phía trước tách riêng với nhau theo chiều dài. Vạt áo phía sau cũng được chia làm hai nhưng được cô với nhau tạo thành một đường sống áo. Vạt áo phía sau thường sử dụng những mảnh vải có màu nâu non hoặc màu nâu. Vì trong thời kỳ này kỹ thuật dệt còn thô sơ nên chỉ diệt được những khổ vải nhỏ khoảng 35-40cm nên phải may lại với nhau để tạo thành một tà áo. Như vậy vẫn được gọi là áo tứ thân.
Áo tứ thân gồm có hai vạt, bốn tà. Chiều dài khoảng qua đầu gối, không có khuy áo. Người con gái thường mặc yếm ở phía bên trong. Loại yếm được sử dụng ở đây là kiếm cánh nhạn sẽ sâu xuống dưới hoặc có thể là yếm cổ xây. đối với những người phụ nữ đứng tuổi thì sẽ mặc yếm có màu đậm hơn và những cô gái trẻ mặc yếm màu thắm đỏ. Bên ngoài kiếm là một chiếc áo trắng mỏng. Các cô gái thường sử dụng một chiếc thắt lưng xanh để có thể giữ được và kết hợp giữa áo vạt ngắn với cạp quần hoặc váy đen. Chiếc dây thắt lưng màu xanh này còn được dùng như một đồ vật để trang trí về màu sắc. Phía ngoài cùng chính là chiếc áo tứ thân với những tà áo buông xuống thướt tha làm cho thân hình của các cô gái trở nên thon thả và gọn gàng hơn. Như thế là đã đủ một bộ xiêm y đẹp, vừa tiện lợi khi làm việc vừa có thể đi chơi đây đó.
Trên những sân khấu truyền thống người ta thường sử dụng áo tứ thân cho những vai phụ nữ, trang phục ngày thường được may bằng những mảnh vải có màu sẫm sử dụng khuy tròn để gài bên nách phải.
Áo tứ thân và nón quai thao chính là hình ảnh quen thuộc của người phụ nữ xưa
Ý nghĩa của áo tứ thân
Áo tứ thân không chỉ là một trang phục truyền thống đẹp của các cô gái ngày xưa mà còn mang theo những ý nghĩa rất sâu sắc và đặc biệt: Phần phía trước có hai vạt áo phần phía sau có hai vạt áo tượng trưng cho cha mẹ đẻ và cha mẹ chồng. Có một vạt cụt được sử dụng giống như một chiếc yếm nằm ở phía trong 2 vạt lớn hơn, điều này tượng trưng cho hình ảnh cha mẹ đang ôm ấp đứa con của mình vào lòng. Năm hạt núi được sắp xếp cân xứng với nhau ở 5 vị trí cố định nhằm giữ cho nếp của áo luôn được ngay thẳng và 5 hạt Nút này cũng tượng trưng cho 5 đạo làm người: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Hai vạt áo ở phần trước được buộc lại với nhau tượng trưng cho tình cảm vợ chồng khăng khít.
Đã gần 1 thế kỷ trôi qua, những hình ảnh dân gian như nón thúng quai thao, áo tứ thân đã dần đi vào dĩ vãng. Làng Chuông với chuyên làm ra những chiếc nón thúng, Làng Triều Khúc – nơi những chiếc quai thao được làm ra nay cũng đã chuyển đổi sang ngành nghề khác. Vì trên thực tế, mọi người đã không còn ưa chuộng nón thúng, quai thao. Chính vì thế, các thế hệ trẻ của Việt Nam và các bạn bè quốc tế chỉ biết đến trang phục truyền thống thời xưa của người Việt Nam thông qua những hình ảnh, vật phẩm trong bảo tàng hoặc các sàn diễn dân tộc… Tuy nhiên, những trang phục truyền thống của người Việt Nam đó sẽ không bao giờ bị mất đi vì nó đã tồn tại trong tiềm thức của mỗi chúng ta, chúng vẫn sẽ mãi mãi là linh hồn của người Việt Nam.
Trải qua bao nhiêu năm tháng thăng trầm trong lịch sử cùng với sự du nhập của nhiều nền văn hóa trong thời kỳ nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới làm cho cách ăn mặc của người phụ nữ Việt Nam cũng dần thay đổi để có thể thích nghi với sự phát triển của xã hội. Chính vì thế mà những giải yếm đào hoặc áo tứ thân đôi guốc mộc chỉ còn ở trong hoài niệm. Tuy nhiên, không phải là những trang phục truyền thống mang dấu ấn của lịch sử đã Hoàn toàn biến mất vì ở rất nhiều ngôi làng cổ hiện nay vẫn còn một số người cao tuổi vẫn sử dụng những chiếc áo tứ thân được làm một cách thủ công như trang phục mặc hàng ngày.
Đây cũng chính là những minh chứng sống cần được gìn giữ để những thế hệ trẻ sau này có được một cái nhìn toàn diện về lịch sử, làng quê của Việt Nam cũng như hình ảnh của người phụ nữ tần tảo lam lũ trong thời kỳ xưa.